Châu Kiệt Luân sinh ra và lớn lên tại hương Lâm Khẩu, huyện Đài Bắc nay là quận Lâm Khẩu, thành phố Tân Bắc, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Cha mẹ anh đều là giáo viên trường cấp II: mẹ anh là Diệp Huệ Mĩ (tiếng Trung: 葉惠美; bính âm: Yè Huìměi) dạy vẽ trong khi cha anh Châu Diệu Trung (tiếng Trung: 周耀中; bính âm: Zhōu Yàozhōng) là một thầy giáo sinh học. Mẹ anh đã phát hiện ra năng khiếu âm nhạc của con trai mình nên đã cho Châu Kiệt Luân học piano năm anh lên lên 4. Trong suốt thời thơ ấu, Châu Kiệt Luân đã bị hấp dẫn với việc thu âm và bái hát với máy thu âm mà anh luôn mang theo bên mình. Lên lớp 3, anh trở nên thích lí thuyết âm nhạc và cũng bắt đầu chơi cello. Châu Kiệt Luân thích chơi piano, bắt chước các diễn viên TV, và biểu diễn ảo thuật. Ba mẹ đã li dị khi anh 14 tuổi khiến anh trở nên nhút nhát và sống khép kín. Mặc dù anh có nhiều bạn, nhưng anh chỉ muốn một mình nghe nhạc, du ngoạn và mơ mộng. Anh bắt đầu thích thể loại pop và bắt đầu sáng tác bài hát.
Châu Kiệt Luân không đủ điểm để đỗ đại học, anh học quá tệ, nên bị buộc phải phục vụ nghĩa vụ quân sự. Tuy nhiên, chấn thương trong lúc chơi thể thao đã gây nên một cơn đau lưng, một căn bệnh viêm xương sống di truyền khiến cho anh được miễn phục vụ quân sự. Sau đó, anh đã trở thành một người hầu bàn. Bạn anh đã ghi danh cho cả hai trong một kì thi tài năng được gọi là Super New Talent King mà đã không cho Luân biết. Luân đã chơi piano đệm cho bạn mình, người có giọng hát được cho là "lousy". Mặc dù họ không thắng nhưng Luân đã gây ấn tượng đến người tổ chức chương trình Ngô Tông Hiến, một nhân vật có ảnh hưởng trong lãnh vực giãi trí Đài Loan. Ngô đã thuê anh như một nhạc sĩ và cho anh biễu diễn chung với nhà thơ trữ tình Phương Văn Sơn (tiếng Trung: 方文山; bính âm: Fāng Wénshān).
Trong suốt hai năm kế, Châu Kiệt Luân sáng tác bài hát cho các ca sĩ pop Trung Quốc, và học thu âm với trộn âm. Ngô không dự định cho Châu trở thành một ca sĩ bởi vì Ngô nghĩ rằng anh hay thẹn thùng và không điển trai. Xưởng nhạc của Ngô sau đó được bán cho Alfa Music, và giám đốc mới Dương Tuấn Vinh đề nghị Châu cho ra album của riêng mình. Châu đã có sẵn trong tay một chuỗi bài hát mà anh đã sáng tác cho các ca sĩ nhưng bị từ chối cho nên anh đã chọn 10 bài hát ở trong ấy cho đĩa CD mà Châu đã cho ra trong năm 2000. Album đã giúp Châu nổi tiếng như một nhạc sĩ kiêm ca sĩ với phong cách trộn lẫn nhiều thể loại nhạc (R&B, rap, nhạc cổ điển,...). Sự nổi tiếng của Châu lan truyền nhanh chong không chỉ trong những vùng Trung Hoa, mà còn khắp các quốc gia ở Nam Á. Từ năm 2000, Châu đã cho ra mỗi năm một album, bán được nhiều triệu bản, và được công nhân với hàng trăm giải thưởng. Năm 2003, anh được đưa lên làm trang bìa trong tạp chí Time (Châu Á), công nhận ảnh hưởng của Châu. Châu đã tổ chức bốn tours, "The One" (2002), "Uncomparable" (2004), "World Tour" (2007) và "The Era" (2010) biểu diễn ở những thành phố như Đài Bắc, Hồng Kông, Bắc Kinh, Kuala Lumpur, Singapore, Las Vegas, và Vancouver. Không giống hầu hết các ca sĩ, Châu không chỉ là nhạc sĩ mà còn là nhà sản xuất trong tất cả album của mình; từ nặm 2005 anh còn là đạo diễn âm nhạc cho video của mình và các ca sĩ khác.
Trong lúc tiếp tục sản xuất abum hàng năm, Châu cũng tham gia vào lãnh vực điện ảnh với vai trò như một diễn viên trong "Initial D", mà nhờ nó anh đã dành được danh hiệu Diễn viên mới hay nhất tại giải Kim Mã 2005. Trong những năm kế tiếp, Châu tham gia như một nhân vật thứ chính trong "bom tấn" Hoàng Kim Giáp, với những ngôi sao Trung Hoa như Châu Nhuận Phát và Củng Lợi. Tháng hai 2007, Châu cuối cùng vung đầy giấc mơ thơ ấu của mình trở thành đạo diễn trong Bí mật, trong đó anh đã vào vai chính. Tháng 3 2007, hợp đồng 8 năm với Alfa Music chấm dứt. Châu, quản lí của anh Dương Tuấn Vinh, và nhạc sĩ Phương Văn Sơn hợp tác thành lập công ty thu âm mới, JVR Music (Viết tắt tên của Jay, Vincent, Jun Rong) mà thông qua đó Châu sẽ có thể tiếp tục sự nghiệp âm nhạc của mình và nuôi dưỡng những tài năng những tài năng ca hát mới.
2000 Phong cách âm nhạc
Những sáng tác của Châu phần lớn thuộc thể loại nhạc pop. Trong khi nhiều tác phẩm của anh lại rơi vào các thể loại R&B, rap, rock hiện đại. Thuật ngữ "phong cách họ Châu" (phồn thể: 周氏風格; bính âm: zhōu shì fēnggé) được phổ biến để diễn tả phong cách nhạc pha trộn nhiều nền văn hóa của anh. Anh thường xuyên phối hợp nhạc cụ Trung Hoa với những phong cách như R&B hay rock để tạo nên một thể loại nhạc mới được gọi là "gió Trung Quốc" (phồn thể: 中國風; bính âm: Zhōngguó fēng), trong đó một vài bài hát được viết trên thang âm Pentatonic như trên thang âm 7 nốt để nhấn mạnh phong cách phương đông. Bên cạnh đó, anh còn phối hợp đàn ghi-ta Tây Ban Nha trong "Hồng mô phỏng" (phồn thể: 紅模仿; bính âm: hóng mófǎng), techno/electronica của Mĩ trong "Bản thảo cương mục" (phồn thể: 本草綱目; bính âm: Běncǎo Gāngmù), rap với phong cách nhạc cổ điển trong "Nghịch luân" (phồn thể: 逆鱗; bính âm: nìlín), và phong cách Bossanova trong "Mê điệt hương" (phồn thể: 迷迭香; bính âm: mídiéxiāng). Những ảnh hưởng âm thanh trong cuộc sống đời thường thêu dệt nên âm nhạc của Châu, như âm thanh quả banh bóng bàn, tiếng điện thoại reo, âm thanh của những cách quạt trực thăng, mưa, và tiếng ồn của rađio. Châu thường sáng tác những tác phẩm với âm hưởng cổ điển như đối âm trong tác phẩm "Chủ nghĩ hoàn hảo" (phồn thể: 完美主義; bính âm: wánměizhǔyì) và "Xin lỗi" (phồn thể: 對不起; bính âm: duìbuqǐ), và "phức điệu" trong "Vết thương của chiến tranh" (phồn thể: 止戰之殤; bính âm: zhǐ zhàn zhī shāng) và trong "Chương VII của đêm" (phồn thể: 夜的第七章; bính âm: yè de dì-qī zhāng).
Những album gần đây của Châu được cho rằng thiếu sự biến đổi so với các tác phẩm đầu tay của anh, nhưng anh đã kiên quyết khẳng định rằng anh sẽ không thay đổi phong cách của mình: "Họ nói rằng tôi đang bế tắc... nhưng đây là âm nhạc mà tôi muốn, và tôi không thấy điều tôi muốn bằng cách tiến lên phía trước...". Để bày tỏ quan điểm của mình, Châu đặt tên album phát hành năm 2006 Giống như Fantasy sau album anh đã phát hành năm 2000 Fantasy. Album này của anh đã bị chỉ trích là "(nói) lầm bầm" mà anh đã nhấn mạnh rằng anh sẽ không thay đổi. Tuy nhiên, gần đây Châu đã sử dụng cách phát âm rõ ràng hơn trong những tác phẩm như "Thiên lí chi ngoại" (phồn thể: 千里之外; bính âm: qiānlǐ zhīwài) và "Đài hoa cúc" (phồn thể: 菊花臺; giản thể: 菊花台; bính âm: júhuā tái). mà anh cũng nhấn mạnh rằng sẽ không thay đổi;
2003 Diễn xuất
Bước đi vào diễn xuất được xem như là một bước đi không tưởng cho Châu. Giáo viên anh văn của anh đã nghĩ rằng anh chỉ có khả năng đóng một số ít nhân vật, và đạo diễn của Tầm trảo Châu Kiệt Luân (Hidden Track, 2003) đã nói rằng tính cách cá nhân của Châu sẽ không giúp Châu trở thành một diễn viên chuyên nghiệp. Trong năm 2005, Châu vào vai chính trong bộ phim Initial D với hai mục đích: Khởi đầu sự nghiệp diễn viên, và gia tăng danh tiếng của mình với các khán giả Nhật. Bộ phim được viết dựa trên một bộ truyện cùng tên, trong đó Châu Kiệt Luân vào vai Fujiwara Takumi, một tay đua xe có tài năng, người hiếm khi biểu lộ cảm xúc của mình. Một số người xem phê bình diễn xuất ôn hòa của anh, trong khi nhiều người khác cảm thấy rằng anh đã diễn xuất rất tự nhiên, nhưng chỉ vì tính cách nhưng vật khá giống bản thân anh. Tài năng diễn xuất của Châu đã giúp anh giành được giải Diễn viên mới xuất sắc nhất tại Giải Kim Mã và Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông. Châu tham gia một vai phụ trong bộ phim bom tấn năm 2006, Hoàng Kim Giáp và đã gây được rất nhiều sự chú ý với các nhà phê bình Trung Quốc. Sự tham gia của Châu trong bộ phim này được công bố trong một buổi họp báo riêng với buổi họp báo của Châu Nhuận Phát, Củng Lợi và các diễn viên khác. Châu thể hiện nhân vật Hoàng tử Jai, một hoàng tử tham vọng và cũng là một vị tướng của quân đội Hoàng gia với tính cách tượng trưng cho "Hiếu", một trong những phẩm chất cổ điển Trung Hoa. Hoàng Kim Giáp được công chiếu trên khắp thế giới, đây là lần đầu tiên khán giả Bắc Mĩ biết đến Châu với tư cách một diễn viên điện ảnh. Diễn xuất của Châu được giới phê bình Trung Quốc đánh giá có cả "thiếu tính phức tạp" cho đến "có thể chấp nhận được" nhưng lại được tán dương nhiệt liệt từ những khán giả phương Tây. Với vai diễn trong Hoàng Kim Giáp, Châu được đề cử diễn viên phụ hay nhất trong Giải thưởng điện ảnh Hồng Kông. Trong bộ phim năm 2008, Kung Fu Dunk, Châu vào vai một võ sinh Kung Fu. Bộ phim có doanh thu hơn 100 triệu tệ (khoảng 14.7 triệu USD). Châu thể hiện nhân vật Kato trong The Green Hornet, đạo diễn bởi Michel Gondry và phát hành tháng 1 năm 2011, sau khi diễn viên Hồng Kông Châu Tinh Trì rút khỏi dàn diễn viên chính. Bộ phim thu được 228 triệu USD trên toàn thế giới.
2004 Hợp tác
Châu bắt đầu sự nghiệp sáng tác bài hát cho các ca sĩ và tiếp tục lãnh vực này ngay cả sau khi anh quyết định bước vào lãnh vực ca hát. Anh đã thường xuyên sáng tác cho Thái Y Lâm, Ôn Lam Ảnh (Landy Wen), và thỉnh thoảng cho các ca sĩ Đài Loan khác như Lý Mân, S.H.E, Từ Nhược Tuyên, Vương Lực Hoành, Lưu Canh Hoành, Hứa Như Vân, và các ngôi sao nhạc pop Lương Hán Văn, Lương Vịnh Kì, Trần Tiểu Xuân, Trần Quán Hi, Mạc Văn Uý, Cổ Cự Cơ, Trần Dịch Tấn, và Dung Tổ Nhi. Anh cũng sáng tác cho các ca sĩ thế hệ trước như Ngô Tông Hiến, sau đó là ca sĩ Đài Loan Giang Huệ, và các ca sĩ Hồng Kông Trương Học Hữu, Lưu Đức Hoa, Lữ Phương, Quách Phú Thành, và Chung Trấn Đào. Anh thu nhận nhóm nhạc Nam Quyền Mama năm 2004, lựa chọn các thành viên nhóm nhạc và trông nom việc sản xuất album của họ. Nhóm nhạc Nam Quyền Mama được cho là có phong cách hòa âm rất giống với Châu;kết quả là Châu phải giảm sự liên quan của mình vào nhóm, nhưng anh vẫn tiếp tục giúp họ thu hút khán giả bắng cách mời họ tham gia những buổi hòa nhạc và video nhạc của mình. Châu đã biểu diễn trực tiếp cùng với Ôn Lam, Thái Y Lâm, và bạn gái cũ Hầu Bội Sầm, nhưng chỉ có hai bài hát được vào albums của anh: "Hải san hô" (tiếng Trung: 珊瑚海; bính âm: shānhú hǎi) năm 2005 với Lương Tâm Di (thành viên của nhóm Nam Quyền Mama) và "Thiên lí chi ngoại" (tiếng Trung: 千里之外; bính âm: qiānlǐ zhīwài) năm 2006 với Phí Ngọc Thanh, người đã bắt đầu sự nghiệp của mình những năm 1970. Bên cạnh làm việc với những ca sĩ, Châu còn hợp tác với nhà thơ trữ tình Phương Văn Sơn bởi vì họ cùng bắt đầu sự nghiệp âm nhạc năm 1998. Album Đối tác (phồn thể: 拍檔; giản thể: 拍档; bính âm: pāidàng) bao gồm 12 bài hát, mỗi bản gồm có sữ phối hợp âm của Châu và lời nhạc của Phương. Phương đã viết cho Châu hơn 40 bài hát, đóng vai trò là một nhà biên soạn chính trong quyển sách mang tựa đề là Grandeur de D Major (phồn thể: D調的華麗; giản thể: D调的华丽; bính âm: D diào de huálì), và bây giờ cả hai đang hợp tác phát triển công ty ghi âm JVR cùng với nhà quản lí của Châu, Dương Tuấn Vinh.
2004 Đạo diễn
Châu đã vào vai trò đạo diễn lần đầu tiên trong những videos âm nhạc năm 2004. Ban đầu anh thử sức với bài hát mang tên "Nhà" được trình bày bởi nhóm Nam Quyền Mama (tiếng Trung:家; bính âm: jiā) nơi anh đã tham gia trong suốt toàn bộ quá trình từ nghiên cứu đến chỉnh sửa. Sau khi trải qua những khó khăn để trở thành đạo diễn, anh đã từ chối chỉ huy một lần nữa theo yêu cầu của chính công ty thu âm của mình. Tuy nhiên, sở thích của anh lại nổi lên lần nữa và anh đã chỉ huy cho 4 videos âm nhạc trong 12 bài hát nằm trong album của mình Tháng 11 của Chopin năm 2005 và sau đó là những quảng cáo trên TV. Gần năm 2006, anh chịu trách nhiệm cho cốt truyện, chỉ huy, và chỉnh sửa những video âm nhạc cho tất cả những bài hát của mình. Việc đánh giá công việc của anh thì không rõ ràng bởi vì những video âm nhạc hiếm khi được các nhà phê bình để mắt đến. Tuy nhiên, đạo diễn Trương Nghệ Mưu đã nói rằng khả năng chỉ huy của Châu có thể vượt trội hơn cả ông trong tương lai sau khi ông xem những video âm nhạc của Châu.
Tháng 2 năm 2007, Châu đạo diễn tác phẩm đầu tay mang tựa đề Secret. Câu chuyện anh viết dựa trên mối quan hệ của anh với cô bạn gái trung học, với cốt truyện tập trung vào âm nhạc, tình yêu, và gia đình. Anh đã vào vai chính trong bộ phim với Quế Luân Mĩ đóng vai nữ chính, và diễn viên kì cựu Hồng Kông Hoàng Thu Sinh với vai cha của Châu. Mặc dù với kinh nghiệm đạo diễn của mình trong những videos âm nhạc, Châu thừa nhận rằng chỉ đạo diễn xuất cho những bộ phim thì cam go hơn so với các video âm nhạc bởi vì những lời thoại và thời gian. Bộ phim này đã được ra mắt vào tháng 7, 2007.
2004 Sách: Grandeur de D Major
Châu xuất bản quyển sách đầu tiên của mình mang tên Grandeur de D Major (phồn thể: D調的華麗; giản thể: D调的华丽; bính âm: D diào de huálì). Quyển sách 200 trang này diễn tả đoạn mở đầu được viết bởi gia đình, bạn bè, và những công nhân của anh; tiết đoạn chính là sự biên soạn những quan điểm, triết lí, và kí ức cùng những kinh nghiệm ấu thơ song song với những bức ảnh từ những video âm nhạc của anh, trong đó rất nhiều video chưa được ra mắt; và cuối cùng, một danh sách liệt kê những giải thưởng của những nghệ sĩ, những tác phẩm âm và lới nhạc. Quyển sách này tiết lộ tính cách của anh và những lời thú nhận đã phục vụ như một nền tảng cơ sở cho hình tượng âm nhạc cũng như hình tượng quần chúng. Anh đã bày tỏ giá trị của gia đình với sự liên kết một cách đặc biệt đến mẹ và bà ngoại mình. Anh đã cống hiến 2 trong 7 chương về âm nhạc: tình trang hiện tại của nền công nghiệp, phương pháp sáng tác của anh, và chủ nghĩa cá nhân đến thành công trong âm nhạc. Sự hãnh diện này lại tương phản với sự nhún nhường và ngờ nguệch của anh trong nhiều khía nghĩa cuộc sống, đạc biệt là những mối quan hệ và hôn nhân.
2005 Sự nghiệp điện ảnh
Châu chính thức bước vào lĩnh vực điện ảnh vào năm 2005 với bộ phim Initial D (頭文字D). Trước đó anh đã tham gia diễn xuất trong 3 bộ phim, đạo diễn một bộ phim và một số video âm nhạc khác. Châu, người đã từng nói "Tôi sống cho âm nhạc", mạo hiểm vào những bộ phim bởi vì anh cảm thấy cần thiết cho một thử thách mới. Do những fan hâm mộ lo lắng rằng anh sẽ làm hại sự nghiệp âm nhạc của mình, Châu đã cam đoan một lần nữa rằng phim ảnh là nguồn gốc cho sự cảm hứng và nó sẽ không làm hỏng sự nghiệp âm nhạc của anh. Cùng lúc đó, anh nhận thấy rằng mình cần cân bằng cả hai lĩnh vực cũng như sự nghiệp và duy trì vị trí của mình trong lĩnh vực âm nhạc để không làm mất sự ủng hộ của người hâm mộ.
Source: Vnexpress |
|